Nghe kém là gì? Các công bố khoa học về Nghe kém

Nghe kém là khả năng nghe của một người không tốt. Người nghe kém có thể không nghe rõ, không hiểu ý nghĩa của những gì được nói hoặc có khó khăn trong việc tập...

Nghe kém là khả năng nghe của một người không tốt. Người nghe kém có thể không nghe rõ, không hiểu ý nghĩa của những gì được nói hoặc có khó khăn trong việc tập trung vào âm thanh. Sự nghe kém có thể do nhiều yếu tố như thính lực yếu, sự mất tập trung, bệnh tật, hoặc thiếu kỹ năng nghe hiệu quả.
Nghe kém có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau. Dưới đây là một số nguyên nhân phổ biến gây ra hạn chế trong việc nghe hiểu:

1. Thính lực yếu: Nếu cơ quan thính giác của bạn bị tổn thương do tuổi già, bị ảnh hưởng bởi bệnh tật, hoặc do sự tiếp xúc lâu dài với âm thanh ồn ào, bạn có thể gặp khó khăn trong việc nghe. Thính lực yếu có thể làm cho âm thanh trở nên mờ, mất đi cái nhìn toàn diện và làm giảm khả năng phân biệt các âm thanh khác nhau.

2. Thiếu kỹ năng nghe: Kỹ năng nghe là quá trình hiểu và ghi nhớ thông tin được truyền đạt qua âm thanh. Nếu bạn không được trang bị đầy đủ những kỹ năng cần thiết, bạn có thể gặp khó khăn trong việc tiếp thu thông tin và hiểu ý nghĩa của những gì người khác đang nói.

3. Mất tập trung: Sự mất tập trung là một vấn đề nghe kém phổ biến. Khi não không tập trung vào âm thanh đang được truyền đạt, bạn có thể bỏ lỡ thông tin quan trọng hoặc không hiểu rõ ý nghĩa của nó. Các yếu tố gây mất tập trung bao gồm môi trường ồn ào, sự lo lắng, căng thẳng hoặc quá nhiều thông tin đến cùng một lúc.

4. Khả năng ngôn ngữ: Nếu ngôn ngữ mà người nói sử dụng phức tạp hoặc lạ lẫm đối với bạn, bạn có thể gặp khó khăn trong việc hiểu ý nghĩa của những gì đang được truyền đạt.

5. Vấn đề thần kinh hoặc y tế: Một số bệnh tật hoặc vấn đề thần kinh như bệnh Parkinson, bệnh Alzheimer, tổn thương não hoặc các vấn đề liên quan đến hệ thần kinh có thể làm giảm khả năng nghe của một người.

Nghe kém có thể gây ra nhiều vấn đề trong giao tiếp và tương tác xã hội, do đó quan trọng để chẩn đoán và điều trị nguyên nhân gốc rễ của vấn đề khiến bạn nghe kém.
Nghe kém có thể được chia thành hai loại chính: nghe kém cơ học và nghe kém ngôn ngữ.

1. Nghe kém cơ học: Đây là loại nghe kém liên quan đến sự tổn thương của cơ quan thính giác, bao gồm tai trong, tai ngoài, tai giữa và tai trong. Các nguyên nhân gây nghe kém cơ học có thể bao gồm:

- Thính lực yếu: Có thể do tuổi tác, di truyền, hoặc tổn thương cơ quan thính giác do ảnh hưởng của môi trường, tiếng ồn quá mức, hoặc sử dụng lâu dài các thiết bị nghe nhạc qua tai nghe ồn ào.

- Vi khuẩn, vi rút, hoặc nhiễm trùng đường ống tai: Các tổn thương do nhiễm khuẩn có thể gây hại cho cơ quan thính giác.

- Tai biến, chấn thương hoặc bất kỳ thương tổn nào đến cơ quan thính giác: Các thương tổn như vỡ màng nhĩ hoặc tai biến có thể gây ra nghe kém cơ học.

2. Nghe kém ngôn ngữ: Đây là loại nghe kém liên quan đến khó khăn trong việc hiểu và chế biến thông tin ngôn ngữ. Các nguyên nhân gây nghe kém ngôn ngữ có thể bao gồm:

- Thiếu kỹ năng nghe: Kỹ năng nghe bao gồm việc hiểu và xử lý thông tin ngôn ngữ. Nếu kỹ năng nghe không phát triển hoặc không được huấn luyện đầy đủ, một người có thể gặp khó khăn trong việc lắng nghe và hiểu ý nghĩa của những gì đang được truyền đạt.

- Ngôn ngữ lạ hoặc phức tạp: Sử dụng ngôn ngữ lạ hoặc không quen thuộc, hoặc sử dụng ngôn ngữ phức tạp có thể gây khó khăn cho việc hiểu và chế biến thông tin.

- Mất tập trung và xao lạc: Thiếu tập trung và bị xao lạc trong quá trình nghe cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến khả năng nghe và hiểu.

Để xác định chính xác nguyên nhân và điều trị cho nghe kém, quan trọng để tham khảo một chuyên gia y tế, như bác sĩ tai mũi họng hoặc chuyên gia về thính lực, để được tư vấn và chẩn đoán đúng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nghe kém":

Báo cáo trường hợp bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn cả hai thất đi kèm cầu cơ
Bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn là loại bệnh tim ít gặp, khoảng 0,2% dân số và thường là phì đại thất trái đơn thuần đi kèm với hở van hai lá do hội chứng SAM. Điều trị nội, đốt nhánh vách thứ nhất bằng cồn tuyệt đối hoặc phẫu thuật cắt cơ gây hẹp là các phương pháp điều trị cho loại bệnh này. Chúng tôi báo cáo kết quả phẫu thuật một trường hợp bệnh phì đại cả hai thất gây tắc nghẽn đi kèm cầu cơ đoạn hai ĐM xuống trước trái
#bệnh cơ tim phì đại #hội chứng SAM #cầu cơ
Đặc điểm thính lực trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ 2022-2023
Tạp chí Tai Mũi Họng Việt Nam - Số 4 - Trang 51-59 - 2023
Đặt vấn đề: Mối liên quan giữa Đái tháo đường (ĐTĐ) và giảm thính lực đã được biết đến qua nhiều nghiên cứu, tình trạng tăng đường huyết ảnh hưởng đến nghe kém và cơ chế được nhắc đến chủ yếu do bệnh lý mạch máu nhỏ. Mục tiêu: So sánh sự khác biệt về thính lực giữa 2 hai nhóm không mắc và mắc Đái tháo đường type 2 và các yếu tố có ảnh hưởng đến thính lực của bệnh nhân mắc ĐTĐ type 2. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có nhóm chứng. 141 người tham gia từ 36-60 tuổi tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Tp. Hồ Chí Minh. Kết quả: Tỷ lệ nghe kém tiếp nhận ở nhóm bệnh là 77,1%, trong đó chủ yếu 48,94% nghe kém tiếp nhận mức độ rất nhẹ. Ngưỡng nghe của nhóm mắc ĐTĐ type 2 cao hơn đáng kể đặc biệt ở các tần số cao so với nhóm chứng khi so sánh ở các nhóm tuổi. Tình trạng kiểm soát đường huyết kém, có biến chứng, thời gian mắc bệnh lâu dài cho thấy đều có sự khác biệt về ngưỡng nghe ở các tần số cao khi so sánh giữa 2 nhóm. Kết luận: Có mối liên quan giữa Đái tháo đường type 2 và ngưỡng nghe, đặc biệt ở các tần số cao. Kiểm soát đường huyết không tốt, thời gian mắc bệnh kéo dài, có biến chứng của bệnh có ý nghĩa trong việc dự báo sớm có sự hiện diện nghe kém trên bệnh nhân.
#Đái tháo đường type 2 #thính lực đơn âm #nghe kém tiếp nhận
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO BUỒNG CÁCH ÂM ĐỂ ĐO SỨC NGHE
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Tổ chức Y tế thế giới ước tính rằng có 1.7% trẻ dưới 15 tuổi bị nghe kém ở các mức độ khác nhau, tương đương với 32 triệu trẻ em trên toàn thế giới. Nam Á là khu vực có trẻ bị nghe kém cao nhất thế giới (2.4%), tiếp theo đó là khu vực Châu Á Thái Bình Dương, chiếm khoảng 2% trẻ dưới 15 tuổi bị nghe kém. Theo thống kê trên, chúng tôi ước tính nhu cầu buồng đo cách âm rất lớn và cần đạt tiêu chuẩn cách âm để phục vụ công tác khám chữa bệnh, nghiên cứu khoa học và đào tạo. Thêm vào đó là sự phát triển của nền công nghiệp nên nhu cầu đo khám sức khỏe cho công nhân và ảnh hưởng của tiếng ồn công nghiệp lên hệ thống thính giác nên nhu cầu theo dõi ảnh hưởng của tiếng ồn đến sức nghe là cấp thiết. Để đánh giá chính xác mức độ nghe kém chúng thực hiện các nghiệm pháp đo sức nghe trong môi trường yên tĩnh hay cụ thể hơn là buồng đo được cách âm với môi trường bên ngoài. Hiện nay có hai loại buồng cách âm: Phòng cách âm  cố định và Buồng cách âm đi động. Dù là Phòng cách âm cố định hay Buồng cách âm di động cũng phải tuân thủ các tiêu chuẩn cách âm.
#nghe kém #buồng cách âm #máy đo thính lực
Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ bất thường dây thần kinh VIII ở bệnh nhân nghe kém tiếp nhận bẩm sinh
Nghiên cứu mô tả cắt ngang đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của 102 tai có bất thường thần kinh VIII trên 54 bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng nghe kém tiếp nhận bẩm sinh có chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ 1.5T xương thái dương, sử dụng chuỗi xung T2W gradient-echo độ phân giải cao cắt mỏng ≤ 1mm. Phân tích đặc điểm dây thần kinh VIII ở 2 đoạn giải phẫu góc cầu tiểu não và trong ống tai trong, đánh giá mối liên quan với cấu trúc xương mang thần kinh và các dị dạng tai trong kèm theo. Kết quả cho thấy bất thường dây VIII chủ yếu là bất thường của nhánh thần kinh ốc tai; thiếu hụt nhánh thần kinh ốc tai liên quan mật thiết với bất thường ống tai trong và hố ốc tai; có những dị dạng tai trong nhất định liên quan với bất thường thần kinh VIII.
#Nghe kém tiếp nhận bẩm sinh #cộng hưởng từ #thần kinh VIII #thần kinh ốc tai
Đánh giá tình trạng giảm thính lực ở trẻ sơ sinh bằng đo âm ốc tai sàng lọc (OAE) tại Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên năm 2021
Nghiên cứu cắt ngang mô tả ghe kém trẻ sơ sinh tại bệnh viện đa khoa Vùng Tây Nguyên bằng phương pháp đo âm ốc tai (OAE). Những trẻ được gợi ý nghe kém qua đo OAE sẽ được đo lại lần 2 sau 01 tháng. Nếu kết quả nghi ngờ sẽ được đo điện thính thân não (ABR) nhằm xác định tỷ lệ và đặc điểm nghe kém. Kết quả nghiên cứu trên 620 trẻ có 3,5% trẻ nghe kém, tỷ lệ nghe kém ở trẻ em nam và nữ lần lượt là 13,6% và 9,1%. Nghe kém cả hai tai nghe kém thường gặp nhất chiếm 77,3%. Nghe kém ở trẻ sơ sinh có liên quan đến yếu tố trẻ là người dân tộc, trẻ đẻ non, nhẹ cân, suy hô hấp trong lúc sinh. Mẹ của trẻ tiếp xúc thuốc trừ sâu, chấn thương, sử dụng kháng sinh đều có nguy cơ cho trẻ giảm thính lực khi sinh ra. Các yếu tố này đều có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
#trẻ sơ sinh #nghe kém #tỉ lệ nghe kém #âm ốc tai
TÌNH TRẠNG THIẾU KẼM VÀ VITAMIN A Ở PHỤ NỮ TUỔI SINH ĐẺ MỘT SỐ XÃ NGHÈO CỦA HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA NĂM 2018
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 2 - 2022
Thiếu kẽm và thiếu vitamin A là vấn đề về sức khỏe trên toàn thế giới, đặc biệt ở Việt Nam. Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 414 phụ nữ ở độ tuổi 15-35 tuổi tại một số xã nghèo của huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, để đánh giá tình trạng thiếu kẽm (ZD) và thiếu vitamin A tiền lâm sàng (VAD-TLS). Kết quả cho thấy tỷ lệ ZD và VAD -TLS lần lượt là 88,2 % và 3,1%, nguy cơ VAD-TLS là 36,5%. Tỷ lệ ZD của phụ nữ thuộc nhóm 25 – 35 tuổi (91,7%) cao hơn nhóm 15 – 24 tuổi (84,6%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (YNTK). Giá trị trung bình hàm lượng retinol huyết thanh và tỷ lệ VAD-TLS và nguy cơ VAD-TLS có sự khác biệt có YNTK giữa 2 và 4 nhóm tuổi. Tỷ lệ ZD và VAD-TLS và nguy cơ VAD-TLS của phụ nữ có sự khác biệt giữa các xã (p<0,01). Từ kết quả trên cho thấy thiếu kẽm là vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng, cần tiến hành một biện pháp can thiệp hiệu quả để cải thiện tình trạng thiếu kẽm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở các vùng nghèo, khó khăn.
#thiếu kẽm #thiếu vitamin A #phụ nữ tuổi sinh đẻ #xã nghèo
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG KHẢ NĂNG PHỤC HỒI NGÔN NGỮ CỦA TRẺ ĐIẾC BẨM SINH SAU PHẪU THUẬT CẤY ỐC TAI ĐIỆN TỬ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng và sự phục hồi thính giác của trẻ sau phẫu thuật cấy ốc tai điện tử. Thiết kế nghiên cứu: Hồi cứu và tiến cứu mô tả loạt ca. Phương pháp: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng và khả năng phục hồi thính giác của trẻ qua đánh giá lâm sàng trên thang điểm CAP. Kết quả: Chúng tôi nghiên cứu 39 trẻ điếc bẩm sinh đã phẫu thuật cấy ốc tai điện tử tại Bệnh viện Tai – Mũi – Họng TPHCM từ 01/2018 đến 04/2020 gồm 20 trẻ nam  và 19 trẻ nữ. Độ tuổi phẫu thuật từ 1 đến 13 tuổi (trung bình 3.92 ±2.87 tuổi), trong đó đa số trẻ cấy ốc tai điện tử từ 1 đến 3 tuổi (61.54%). Số trẻ được cấy một tai là 23/39 trẻ (58,97%). Số trẻ được cấy hai tai là 16/39 trẻ (41,03%). Sau phẫu thuật 1 năm, tất cả trẻ đạt CAP từ 5 điểm trở lên, trong đó 87.18% trẻ đạt CAP từ 6 đến 7 điểm. CAP trung bình sau 1 năm cấy ốc tai điện tử là 6.18 ±0.64. Kết luận: Chúng tôi nghiên cứu 39 trẻ điếc bẩm sinh gồm 20 trẻ nam  và 19 trẻ nữ. Độ tuổi phẫu thuật từ 1 đến 13 tuổi). Số trẻ được cấy một tai là 23/39 trẻ (58,97%). Điểm CAP của tất cả trẻ có xu hướng tăng mạnh và về gần bình thường trong vòng 1 năm sau phẫu thuật. Cấy ốc tai điện tử 2 bên cho hiệu quả phục hồi thính giác cao hơn.
#nghe kém #điếc bẩm sinh #ốc tai điện tử #phục hồi thính giác
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐIẾC ĐỘT NGỘT CÓ SỬ DỤNG LIỆU PHÁP OXY CAO ÁP
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 64 Số 5 - 2023
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị bệnh điếc đột ngột (ĐĐN) có sử dụng liệu pháp oxy cao áp (OXCA). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu có can thiệp, so sánh trước sau điều trị. Kết quả: Độ tuổi trung bình là 54,9 ± 15,1 tuổi; tỉ lệ nam/nữ = 1,32; có 43,1% bệnh nhân (BN) không tìm được yếu tố liên quan đến bệnh, BN đến điều trị trong vòng 7 ngày là chủ yếu (64,6%). 100% BN có triệu chứng nghe kém và ù tai, 95,1% BN có cảm giác đầy tai; thính lực đồ dạng đi lên chiếm 52,3%; mức độ nghe kém nhẹ chiếm tỷ lệ nhiều nhất thời điểm vào viện (76,8%). Sau điều trị phần lớn BN có PTA (Pure tone average - Ngưỡng nghe trung bình) trở về bình thường (63,8%); chỉ còn 1 BN thuộc nhóm nghe kém trung bình, 50,7% BN cải thiện hoàn toàn và 14,5% BN có cải thiện một phần sau điều trị (theo Siegel). Nhóm có điều trị OXCA có sự cải thiện PTA 18,9 ± 8,6dB so với 12,9 ± 5,0dB của nhóm không điều trị OXCA (p< 0,05). Kết luận: Nhóm BN ĐĐN được điều trị kết hợp OXCA cho kết quả phục hồi thính lực tốt hơn so với nhóm điều trị nội khoa đơn thuần.
#Điếc đột ngột #nghe kém tiếp nhận đột ngột #oxi cao áp.
THIẾT LẬP VÀ VẬN HÀNH ĐƠN VỊ THÍNH HỌC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Nghe kém được định nghĩa là khả năng nghe của họ không thể nghe tốt như người có thính lực bình thường, với ngưỡng nghe 20dB hoặc thấp hơn. Nghe kém có thể ở mức độ nhẹ, trung bình, nặng hoặc điếc sâu. Nghe kém có thể xảy ra trên một hoặc hai tai, và dẫn tới khó khăn trong giao tiếp hoặc nghe các âm thanh lớn, làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Nghe kém có nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm nhóm nguyên nhân ở tai ngoài, tai giữa, tai trong hoặc các nhóm nguyên nhân này phối hợp với nhau. Tùy theo nguyên nhân gây nghe kém sẽ có những giải pháp điều trị khác nhau như điều trị bằng thuốc, phẫu thuật, trợ thính hoặc phối hợp các phương pháp điều trị với nhau. Vì thế, việc thực hiện các phép đo để chẩn đoán là hết sức cần thiết.  Để vận hành một đơn vị Thính học hiệu quả thì đòi hỏi khâu thiết kế và xây dựng qui trình vận hành nó là hết sức cần thiết, bao gồm 3 yếu tố chính: con người, công nghệ và qui trình.
#nghe kém #buồng cách âm #máy đo thính lực
THIẾU KẼM VÀ VITAMIN A Ở PHỤ NỮ TUỔI SINH ĐẺ CÁC XÃ NGHÈO HUYỆN MƯỜNG LA VẤN ĐỀ Ý NGHĨA SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 1 - 2022
Thiếu kẽm, thiếu vitamin A là vấn đề đáng quan tâm ở các nước nghèo và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 395 phụ nữ từ 15-35 tuổi tại 5 xã nghèo thuộc huyện Mường La, tỉnh Sơn La để mô tả tình trạng kẽm và vitamin A huyết thanh. Kết quả cho thấy tỷ lệ thiếu kẽm là 85,3%, hàm lượng kẽm huyết thanh trung bình là 9,54 ± 1,64 mmol/L. Trong đó tỷ lệ thiếu kẽm cao nhất ở xã Ngọc Chiến (97,7%) và thấp nhất ở xã Nậm Giôn (58,9%). Tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng (VAD-TLS) của đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) là 5,3%, hàm lượng retinol huyết thanh trung bình là 1,17 ± 0,39 mmol/L. Hàm lượng retinol huyết thanh có sự khác biệt có YNTK giữa các nhóm tuổi (p< 0,001). Tỷ lệ nguy cơ và VAD-TLS cao nhất ở nhóm 15-19 tuổi (56,0%) và thấp nhất ở nhóm 25-29 tuổi (44,9%). Tỷ lệ thiếu kẽm và nguy cơ VAD-TLS vẫn còn cao, có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Do vậy can thiệp cải thiện tình trạng vi chất dinh dưỡng cho phụ nữ tuổi sinh đẻ tại các xã nghèo là cần thiết.
#thiếu kẽm #thiếu vitamin A #phụ nữ tuổi sinh đẻ #xã nghèo
Tổng số: 31   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4